16 Di tích trong khu Di tích Quốc gia đặc biệt Phố Hiến (I)

11/11/2022 | 5448

Thành phố Hưng Yên hiện còn bảo tồn được 182 di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật (trong đó có 01 Khu di tích Quốc gia đặc biệt, 20 di tích xếp hạng quốc gia, 25 di tích xếp hạng cấp tỉnh); gần 100 bia ký và hàng ngàn cổ vật có giá trị. Điều đặc biệt là các di tích phân bố ở khắp các phường, xã tạo thành một quần thể di tích với nền kiến trúc nghệ thuật độc đáo, chứng minh cho thời kỳ phát triển rực rỡ của một "Tiểu Tràng An" xưa, là di sản vô giá của kho tàng văn hóa dân tộc và nhân loại.

Với những giá trị đặc biệt về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, ngày 31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2408/QĐ-TTg, xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt cho Khu di tích Phố Hiến. Theo đó khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến gồm 16 di tích tiêu biểu hợp thành: Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây, đền Kim Đằng (phường Lam Sơn); đền Trần, đến Mẫu, đền Thiên Hậu, Võ Miếu, chùa Phố, đền Bà Chúa Kho (phường Quang Trung), chùa Chuông, đình An Vũ, đền Nam Hòa (phường Hiến Nam); đền Cửu Thiên Huyền Nữ (phường Lê Lợi), đình- chùa Hiến, Đông Đô Quảng Hội (phường Hồng Châu) và chùa Nễ Châu (xã Hồng Nam).  

Để tiếp tục bảo tồn, phát huy giá trị to lớn của khu di tích Phố Hiến xứng tầm với di tích quốc gia đặc biệt, tỉnh Hưng Yên và thành phố Hưng Yên tiếp tục huy động các nguồn vốn thực hiện dự án quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị đô thị cổ Phố Hiến, gắn với phát triển du lịch theo Quyết định số 744/QĐ-TTg ngày 27-5-2010 của Thủ tướng Chính phủ. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, du lịch để phát triển du lịch gắn với di tích. Nâng cao chất lượng cán bộ chuyên môn trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch... Ngày 28/7/2017, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2156/QĐ-UBND thành lập Ban quản lý Khu di tích Quốc gia đặc biệt Phố Hiến (gọi tắt là Ban Quản lý khu di tích). Theo đó, Ban Quản lý khu di tích trực thuộc UBND thành phố Hưng Yên, là đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chức năng quản lý, khai thác, bảo tồn, tôn tạo, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến.

16 di tích trong khu di tích quốc gia đặc biệt phố hiến là những di tích tiêu biểu, là sự kết tinh và giao thoa giữa phong cách kiến trúc thuần Việt, kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc theo kiểu phương Tây, có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, là điểm nhấn cho phát triển du lịch ở thành phố Hưng Yên.

1- VĂN MIẾU XÍCH ĐẰNG

Văn Miếu Hưng Yên tọa lạc tại khu phố Xích Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên nên được gọi là Văn Miếu Xích Đằng. Đây là di tích tiêu biểu nhằm tôn vinh nền văn hiến và truyền thống hiếu học lâu đời của người dân Hưng Yên.

 Văn Miếu Xích Đằng là nơi tôn thờ Đức Thánh Khổng Tử (551 - 479 TCN) - người sáng lập ra Nho giáo và các chư hiền của Nho gia. Cùng phối thờ với Khổng Tử là thầy giáo Chu Văn An (1292 - 1370) - nhà sư phạm tài năng, đức độ thời Trần. Vào thời Nguyễn, Văn Miếu còn là nơi tổ chức các kỳ thi Hương và sát hạch thí sinh đi dự kỳ thi Hội.

Văn Miếu Xích Đằng được khởi dựng từ thời Hậu Lê (Thế kỷ XVII) và được trùng tu, tôn tạo lớn vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839). Tương truyền, Văn Miếu được xây dựng trên nền ngôi chùa cổ Nguyệt Đường hay còn gọi chùa 36 nóc, do Hương Hải thiền sư khởi dựng năm 1701 dưới sự giúp đỡ của Quận Công Lê Đình Kiên - quan trấn thủ trấn Sơn Nam. Hiện nay, dấu tích còn sót lại của ngôi chùa cổ là hai ngôi mộ tháp “Phương Trượng tháp” và “Tịnh Mãn tháp”.

Hiện nay, Văn Miếu có tổng thể kiến trúc khá đồng bộ, vững chắc. Từ ngoài vào là Nghi môn đồ sộ được xây dựng theo kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái. Nghi môn là công trình còn được giữ tương đối nguyên vẹn từ khi xây dựng đến nay và cũng là biểu tượng của tỉnh Hưng Yên. Qua cổng Nghi môn là khoảng sân rộng có đường thập đạo chạy qua. Đường thập đạo thể hiện ý nghĩa về “thập nghĩa” trong Nho giáo. Hai bên sân là lầu chuông, lầu khánh với kiến trúc bình đồ hình vuông. Chuông đồng và khánh đá là hai cổ vật quý có niên hiệu Gia Long tam niên (1804). Nối tiếp là hai dãy tả vu và hữu vu mỗi dãy 5 gian, xưa kia là nơi các quan viên để kiệu và sửa sang mũ áo trước khi vào lễ Khổng Tử. Ngày nay sử dụng trưng bày, giới thiệu những hình ảnh, tài liệu của nền giáo dục Hưng Yên qua các thời kỳ.

Tam quan Văn Miếu

Hệ thống bia đá tại Văn Miếu

Khu nội tự Văn Miếu được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Các tòa được làm liên hoàn kiểu trùng thiềm điệp ốc, tất cả đều 05 gian, kết cấu các bộ vì kiểu vì kèo trụ trốn, trang trí theo lối kiến trúc cung đình Huế triều Nguyễn. Tại gian trung tâm tòa Trung từ đặt tượng thờ thầy Chu Văn An. Trung tâm Hậu cung đặt tượng thờ Đức Thánh Khổng Tử, hai bên là ban thờ Tứ Phối.

Hiện vật quý giá nhất lưu giữ tại Văn Miếu là 9 tấm bia đá dựng dọc hai gian hồi tòa Trung từ và Hậu cung. Trong đó có 8 tấm bia được dựng năm Đồng Khánh thứ ba (1888) và tấm bia còn lại được dựng năm Bảo Đại thứ 18 (1943) ghi danh 161 vị đỗ đại khoa của tỉnh Hưng Yên từ thời Trần đến thời Nguyễn (theo tổ chức hành chính năm 1888 - 1890). Các huyện có người đỗ đạt cao như Văn Giang, Ân Thi, Yên Mỹ… Trong đó có một số dòng họ khoa bảng tiêu biểu như họ Dương ở Lạc Đạo - Văn Lâm có 9 vị, họ Hoàng ở Thổ Hoàng - Ân Thi có 10 vị, họ Lê ở Liêu Xá - Yên Mỹ có 6 vị.

Xưa kia, vào mỗi dịp xuân thu nhị kỳ tại Văn Miếu đều tổ chức tế lễ, chủ tế là các quan đầu tỉnh cùng chức sắc, nho sinh. Nơi đây còn tổ chức các cuộc thi bình văn, thơ của nho sĩ yêu nước.

Hàng năm, vào các ngày mồng 4, mồng 5 tết Nguyên đán tại Văn Miếu sẽ diễn ra các hoạt động văn hóa rất có ý nghĩa như: Triển lãm thư pháp, hát ca trù, cho chữ đầu xuân thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương cùng tham gia hưởng ứng; đặc biệt là các em học sinh, sinh viên đến xin chữ để mong ước thuận lợi trong học hành và thi cử. Ngoài ra, nơi đây còn diễn ra một số hoạt động như trao thưởng cho học sinh giỏi, học sinh đỗ đại học nhằm khích lệ cho các em học tập và rèn luyện về đạo đức góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trong thời gian tới, tổng thể quy hoạch khuôn viên Văn Miếu với diện tích 6ha bao gồm các khu: Đền thờ Lạc Long Quân, dinh Hoàng Cao Khải, khu Văn Miếu, Đầm Vạc, Hồ Văn và khu văn hóa khuyến học… Khi quy hoạch tổng thể Văn Miếu sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước khi về với Phố Hiến Hưng Yên. Và Văn Miếu Xích Đằng chính là một biểu tượng về nền học vấn và truyền thống hiếu học của người dân nơi đây.

Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa và kiến trúc nghệ thuật, năm 2014, Văn Miếu Xích Đằng được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là một trong 16 di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến, thành phố Hưng Yên.

2- ĐỀN MÂY

Đền Mây toạ lạc tại khu phố Đằng Châu, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên trong một khung cảnh hữu tình, thơ mộng nên có câu ca: “Trăm cảnh, nghìn cảnh không bằng bến Lảnh, đò Mây”.

Đền là nơi tôn thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ, một vị tướng tài ba của nước ta trong thời kỳ đầu độc lập tự chủ. Ông sinh ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910). Tương truyền, mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên sau khi sinh đã đặt tên là Bạch Hổ.

Ngay từ nhỏ, Phạm Bạch Hổ đã nổi tiếng ham học, có tư chất thông minh, tính tình nóng nảy, cương trực. Lớn lên, Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ, thông minh hơn người, văn võ song toàn. Ông từng làm Hào Trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Ông có công phù giúp Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền xưng Vương, đặt quốc hiệu, đóng đô ở Cổ Loa, ông lui về vùng đất Đằng Châu, bảo vệ an ninh cho vùng xung yếu này. Đến thời Hậu Ngô Vương, phong ông làm Phòng Át, trấn giữ vùng biển Hải Đông. Phạm Bạch Hổ về Đằng Châu xây dựng lũy thành làm lỵ sở. Ngoài ra, ông còn giúp dân khai khẩn đất hoang, mở mang đồng đất, cấy trồng làm cho dân trong vùng được no ấm. Khi Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong 12 sứ quân thời đó.

Vào năm 968, khi Đinh Bộ Lĩnh giương cao ngọn cờ đại nghĩa, đánh dẹp các sứ quân. Phạm Bạch Hổ nhanh chóng nhận ra sức mạnh chính nghĩa đang lên của nghĩa quân Hoa Lư và cũng là sức mạnh của chính nghĩa thống nhất đất nước nên ông đã quy thuận. Phạm Bạch Hổ được Vua Đinh phong đến Thân Vệ Đại tướng quân và ông đã lập được nhiều công lao trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng. Phạm Bạch Hổ mất ngày 16 tháng 11 năm 983, ông được vua Lê phong là Đằng Vương, sắc cho dân lập đền thờ ở quân doanh và suy tôn ông làm Thành hoàng. Đền xây dựng xong, Vua Lê phong tặng ông là “Khai thiên hộ quốc thượng đẳng tối linh thần”.

 Theo truyền ngôn của người dân nơi đây, đền Mây được khởi dựng từ rất sớm với quy mô lớn. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo dấu ấn kiến trúc hiện nay của ngôi đền mang đậm phong cách thời Hậu Lê đan xen phong cách kiến trúc Nguyễn. Đền Mây có tổng thể kiến trúc kiểu chữ Tam gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung với nhiều mảng chạm khắc sinh động mang giá trị mỹ thuật cao.

Tam quan Đền Mây

Khu thờ chính Đền Mây

Hiện nay, đền Mây còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử - văn hoá, nghệ thuật như: Đại tự, kiệu Bát cống, châm thư và18 đạo sắc phong qua các triều đại phong kiến... Đây là những di sản văn hoá vô giá rất cần được gìn giữ, bảo vệ và khai thác, phát huy giá trị.

Hàng năm, đền Mây thường tổ chức lễ hội vào ba dịp: Ngày mồng 8 đến 16 tháng Giêng kỷ niệm ngày sinh; ngày 12 đến 18 tháng 11 âm lịch kỷ niệm ngày mất của Tướng quân. Ngoài ra, nhân dân còn kỷ niệm ngày mất của thân mẫu Phạm Bạch Hổ từ ngày 16 đến 24 tháng 6 âm lịch. Đây là dịp thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn công lao của vị thần có công với đất nước, với vùng quê này.

Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc về lịch sử, văn hoá và kiến trúc nghệ thuật, đền Mây được Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích “Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật” năm 1992 và là một trong 16 điểm di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân thôn Đằng Châu mà còn là niềm vinh dự của người dân Hưng Yên.

3- ĐỀN KIM ĐẰNG

Đền Kim Đằng tọa lạc tại khu phố Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên. Đền tôn thờ tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, cùng phối thờ còn có tướng quân họ Phan, họ Phạm và Họ Nguyễn.

Đinh Điền quê ở làng Đại Hữu, cùng làng với Đinh Bộ Lĩnh, nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Khi còn nhỏ, ông đã cùng lũ trẻ lấy hoa lau làm cờ, khoanh tay làm kiệu, suy tôn và rước Đinh Bộ Lĩnh làm Chúa. Năm 965, Ngô Xương Văn mất, đất nước rơi vào tình trạng chia cắt, hỗn loạn, nổi lên các vùng đất biệt lập do 12 thủ lĩnh đứng đầu, sử cũ gọi là Thập Nhị sứ quân.

Lúc này, tại mảnh đất Hoa Lư, Ninh Bình vang danh người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh. Trong đó, tướng quân Đinh Điền theo phò giúp ông trấn giữ động Hoa Lư. Trên đường hành quân đi đánh trận, khi đến Đằng Man Trang (nay là thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn) thấy địa thế đẹp, ông liền cho quân sỹ nghỉ chân, dựng bản doanh lưu lại. Ông chọn ba người họ Phan, họ Phạm và họ Nguyễn ở Đằng Man làm gia tướng, đồng thời chọn người con gái xinh đẹp, nết na, có tài thao lược họ Phan tên Môi Nương làm vợ. Bà đã có đóng  góp không nhỏ cùng chồng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất nước.

Vào năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại, triều đình suy tôn Vệ Vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên kế ngôi, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu. Đất nước đứng trước họa ngoại xâm của quân Tống, quân sĩ tôn Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua thay cho Đinh Toàn khi đó còn quá nhỏ. Không chấp nhận việc đó, quan Ngoại Giáp Đinh Điền và Định Quốc Công Nguyễn Bặc đem hai đạo quân thủy bộ từ Ái Châu (Thanh Hóa) tiến về kinh thành Hoa Lư mưu giết Lê Hoàn, thu lại giang sơn cho nhà Đinh. Nhưng cuộc chiến thất bại, tướng quân Đinh Điền tử trận, đạo quân tan rã.

Mặt tiền Đền Kim Đằng

Đền Kim Đằng được khởi dựng từ khá sớm, ngay sau khi tướng quân Đinh Điền cùng phu nhân Phan Thị Môi Nương mất, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của các ngài. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, hiện nay đền Kim Đằng có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 05 gian Tiền tế và 03 gian Hậu cung. Tòa Tiền tế được làm kiểu chồng diêm hai tầng tám mái; các đao mái đắp nổi đầu rồng, trên đường bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, hai đầu kìm đắp "lưỡng ngư", mái lợp bằng ngói vẩy rồng, phần cổ diêm đắp bốn chữ "Đinh Đại Linh Từ" bằng chữ Hán. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu quá giang đơn giản, được nâng đỡ bằng hệ thống cột gỗ lim vững chắc. Nối tiếp với Tiền tế là 03 gian Hậu cung lợp ngói mũi. Kết cấu vì kèo kiểu con chồng đấu sen, trên các con rường chạm nổi hình hoa lá cách điệu. Gian trung tâm đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền.

Hiện nay, đền Kim Đằng còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như: hoành phi, câu đối … và đặc biệt là 11 đạo sắc phong thời Hậu Lê và thời Nguyễn.

Hàng năm, lễ hội đền Kim Đằng tổ chức từ ngày 15 đến 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài tổ chức rước kiệu còn có các trò chơi dân gian truyền thống như: chọi gà, múa lân, hát nói, hát trống quân, múa rối nước... để góp phần dựng xây tình đoàn kết xóm thôn, giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.

Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa và kiến trúc nghệ thuật, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng đền Kim Đằng là một trong 16 di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến, thành phố Hưng Yên năm 2014. Đền Kim Đằng cùng với các di tích trong quần thể khu di tích Phố Hiến  đang là điểm du lịch văn hóa tâm linh hướng về cội nguồn vô cùng hấp dẫn, thu hút hàng vạn lượt du khách về với mảnh đất Phố Hiến địa linh đang trên đà phát triển.


4- CHÙA CHUÔNG

Chùa Chuông có tên chữ là Kim Chung tự, được xây dựng trên vị thế đắc địa tại khu phố chùa Chuông, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Đây là một trong những ngôi chùa tiêu biểu, đặc sắc, cảnh đẹp nơi đây đứng vào hàng danh lam cổ tích trong quần thể khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến. Chùa Chuông mang trong mình những giá trị văn hóa, tinh thần mãi mãi trường tồn của một đô thị cổ sầm uất và phồn thịnh, một “Tiểu Tràng an” vào thế kỷ XVI - XVII, nổi tiếng với câu ca “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. 

Tên gọi Chùa Chuông bắt nguồn từ truyền thuyết: Vào một năm xảy ra trận đại hồng thủy, xuất hiện quả chuông lớn đúc bằng vàng, đặt trên bè gỗ trôi trên sông. Dân làng nhiều nơi đua nhau ra kéo nhưng quả chuông vẫn không nhúc nhích. Một ngày kia, chuông vàng dạt vào bãi sông thuộc làng Nhân Dục. Các tăng ni trụ trì tại ngôi chùa nhỏ trong làng cùng hương lão và nhân dân rất vui mừng. Họ cho là trời phật ban cho chuông quý, liền làm lễ kéo chuông lên bờ và rước vào chùa. Khi thỉnh tiếng chuông vang lên âm thanh trong sáng, tiếng vang xa hàng vạn dặm, dân tình các nơi nghe thấy đều phấn chấn. Tiếng chuông vang xa đến tận Bắc quốc, khiến cho báu vật của người Nam lưu lạc ở xứ Bắc trỗi dậy tìm về. Vì sợ mất hết báu vật cướp được của người Nam nên chúng sang đất Việt, đóng giả các cao tăng đến chùa, mưu lấy cắp chuông vàng. Các tăng ni trong chùa biết được dã tâm đó liền dấu chuông đi. Dần dần những người mang dấu chuông đều viên tịch hết, hậu thế muốn tìm lại chuông nhưng không biết ở đâu. Có người cho rằng, chuông vàng đã về với đất mẹ. Để tưởng nhớ chuông vàng đã từng ở chùa, các tăng ni cùng nhân dân liền đổi tên chùa thành Kim Chung Tự (chùa Chuông vàng).

Tam quan Chùa Chuông

Mặt tiền Chùa Chuông

 Hệ thống tượng bài trí tại hai dãy hành lang Chùa Chuông

Qua những biến cố của lịch sử cùng sự bào mòn của thời gian, chùa Chuông đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Kiến trúc xa xưa đã mất, nhưng kiến trúc hiện nay của ngôi chùa có nhiều điểm khác biệt. Nhưng chỉ với một phần tương đồng nhỏ, Kim Chung tự đã tạo cho mình một dáng vẻ riêng nhất, một nét kỳ lạ đầy trí tuệ. Biết tiếp thu để rồi cải biến, chùa Chuông đã phá vỡ khuôn mẫu kiến trúc truyền thống khi xây dựng theo kiểu “Nội công ngoại quốc liên hoàn” cùng “Tứ thủy quy đường” gồm nhiều hạng mục công trình mang đậm dấu ấn kiến trúc, mỹ thuật thời Lê đan xen thời Nguyễn như: Tam quan, nhà Tiền, Tiền đường, Thượng điện, hai dãy hành lang, nhà thờ Đức vua Thần nông, nhà Tổ và nhà Mẫu. Các hạng mục được bố trí đăng đối, hài hòa trên trục đối xứng từ Tam quan đến nhà Tổ. Chính điều đó đã tạọ nên sự tráng lệ và nét kiến trúc đặc sắc, độc nhất vô nhị của ngôi chùa.

Hiện tại, chùa Chuông còn lưu giữ nhiều cổ vật, hiện vật rất có giá trị về mặt mỹ thuật cũng như lịch sử - văn hóa đó là các bức đại tự, câu đối, chuông đồng,… với nội dung phong phú, sâu sắc, đậm tính nhân văn. Tiêu biểu là các di vật như cầu đá xanh, cây hương đá (Thạch thiên đài) được tạo tác năm Chính Hòa thứ 23 (1702) và quý hiếm hơn là tấm bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711). Văn bia ca ngợi chùa Chuông là nơi danh thắng hào khí anh linh, sự phồn thịnh của Phố Hiến xưa và ghi tên những người công đức, tu tạo chùa thời kỳ Phố Hiến hưng thịnh. Đặc biệt, chùa Chuông nổi tiếng bởi hệ thống tượng Phật phong phú, đặc sắc như: Thập Bát La Hán, Thập Điện Diêm Vương cùng bộ Tứ Trấn và Bát Bộ Kim Cương. Mỗi pho tượng mang một sắc thái, dáng vẻ khác nhau, được các nghệ nhân đương thời tạo tác rất công phu, sống động và uyển chuyển. Đây là những di sản văn hóa vô giá, là nguồn sử liệu quý cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về di tích, địa danh và lịch sử Phố Hiến xưa.

Chùa Chuông được Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp quốc gia năm 1992 và là một di tích tiêu biểu trong khu di tích Phố Hiến được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt năm 2014.

Chùa Chuông đã, đang và sẽ trở thành điểm du lịch tâm linh hấp dẫn của mỗi du khách khi về thăm Hưng Yên. Trong tâm thức mỗi người, chùa Chuông mãi là “Đệ nhất danh lam” của mảnh đất Phố Hiến hưng thịnh và yên bình đúng như người xưa đã ca ngợi:

Đất thiêng người tuấn kiệt
     Vật báu trời phát phân
 Quả phúc dài vạn cổ
               Công đức mãi nghìn xuân
        

5- ĐÌNH AN VŨ

Đình An Vũ được xây dựng  trên thế đất hình chim Phượng Hoàng với khuôn viên rộng 3135m2 tại khu phố An Vũ, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Đây là vọng gác tiền tiêu của Phố Hiến xưa.

Đình thờ Cao Sơn Đại Vương được nhân dân truyền gọi là ông Thần Vàng. Thần có tên là Nguyễn Hiền, người xã Thanh Uyên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Ông là danh tướng thời Vua Hùng Duệ Vương, đã cùng Tản Viên Sơn thánh kết nghĩa anh em. Hai ông cùng phò giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục xâm lược giành độc lập cho dân tộc. Sau khi mất, ông được dân làng An Vũ tôn làm thành hoàng của làng và xây đình để ngàn năm thờ phụng.

Đình An Vũ xây dựng từ thời Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 (1741) và được trùng tu, tôn tạo vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại thứ 04 (1929). Đình có kết cấu tổng thể kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Đại bái và Hậu cung với các cấu kiện được làm từ vật liệu gỗ chắc khỏe, bền đẹp. Toà Đại bái 05 gian, kiến trúc bộ vì theo kiểu giá chiêng chồng rường, các khoảng hoành được bố trí kiểu “Thượng tứ hạ ngũ”. Bốn đầu dư đỡ câu đầu chạm lộng hình đầu rồng mang đậm dấu ấn kiến trúc, mỹ thuật thời Hậu Lê. Các cấu kiện như kẻ, bẩy, con rường đều chạm bong kênh hoa văn hình lá lật, hoa dây mềm mại, uyển chuyển. Hậu cung gồm 03 gian với lối kiến trúc đơn giản làm kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì tạo tác kiểu con chồng đấu kê. Đình An Vũ là di tích có kiến trúc tổng thể còn tương đối đồng bộ, các mảng chạm khắc trang trí thời Lê đan xen thời Nguyễn mang giá trị văn hóa, mỹ thuật cao.

Mặt tiền Đình An Vũ

Hiện nay, đình An Vũ còn bảo lưu được nhiều hiện vật, đồ thờ có giá trị như: Tượng Cao Sơn Đại Vương, đỉnh đồng, chuông đồng và đặc biệt là 05 đạo sắc phong thời Nguyễn.

Hằng năm, vào ngày mồng 10 tháng 03 âm lịch, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội truyền thống để tưởng nhớ đến công lao của Thành hoàng. Ngoài các nghi thức  tế lễ, dâng hương còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian truyền thống như: hát trống quân, hát cò lả... thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Đây cũng là dịp tri ân công lao của vị thành hoàng, đồng thời ôn lại quá khứ hào hùng của cha ông ta trong buổi đầu đấu tranh dựng nước và giữ nước.

Đình An Vũ được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng cấp quốc gia năm 1999 và là một trong 16 di tích được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là “Di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật” cấp quốc gia đặc biệt năm 2014.

                   Phương Thu (Trung tâm Văn hóa và Truyền thanh thành phố)




© 2016 Copyright by VNPT Hưng Yên.