16 Di tích trong khu Di tích Quốc gia đặc biệt Phố Hiến (II)

11/11/2022 | 2336

Thành phố Hưng Yên hiện còn bảo tồn được 182 di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật (trong đó có 01 Khu di tích Quốc gia đặc biệt, 20 di tích xếp hạng quốc gia, 25 di tích xếp hạng cấp tỉnh); gần 100 bia ký và hàng ngàn cổ vật có giá trị. Điều đặc biệt là các di tích phân bố ở khắp các phường, xã tạo thành một quần thể di tích với nền kiến trúc nghệ thuật độc đáo, chứng minh cho thời kỳ phát triển rực rỡ của một "Tiểu Tràng An" xưa, là di sản vô giá của kho tàng văn hóa dân tộc và nhân loại.

Với những giá trị đặc biệt về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, ngày 31/12/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2408/QĐ-TTg, xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt cho Khu di tích Phố Hiến. Theo đó khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến gồm 16 di tích tiêu biểu hợp thành: Văn Miếu Xích Đằng, đền Mây, đền Kim Đằng (phường Lam Sơn); đền Trần, đến Mẫu, đền Thiên Hậu, Võ Miếu, chùa Phố, đền Bà Chúa Kho (phường Quang Trung), chùa Chuông, đình An Vũ, đền Nam Hòa (phường Hiến Nam); đền Cửu Thiên Huyền Nữ (phường Lê Lợi), đình- chùa Hiến, Đông Đô Quảng Hội (phường Hồng Châu) và chùa Nễ Châu (xã Hồng Nam).  

Để tiếp tục bảo tồn, phát huy giá trị to lớn của khu di tích Phố Hiến xứng tầm với di tích quốc gia đặc biệt, tỉnh Hưng Yên và thành phố Hưng Yên tiếp tục huy động các nguồn vốn thực hiện dự án quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị đô thị cổ Phố Hiến, gắn với phát triển du lịch theo Quyết định số 744/QĐ-TTg ngày 27-5-2010 của Thủ tướng Chính phủ. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, du lịch để phát triển du lịch gắn với di tích. Nâng cao chất lượng cán bộ chuyên môn trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch... Ngày 28/7/2017, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 2156/QĐ-UBND thành lập Ban quản lý Khu di tích Quốc gia đặc biệt Phố Hiến (gọi tắt là Ban Quản lý khu di tích). Theo đó, Ban Quản lý khu di tích trực thuộc UBND thành phố Hưng Yên, là đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện chức năng quản lý, khai thác, bảo tồn, tôn tạo, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến.

16 di tích trong khu di tích quốc gia đặc biệt phố hiến là những di tích tiêu biểu, là sự kết tinh và giao thoa giữa phong cách kiến trúc thuần Việt, kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc theo kiểu phương Tây, có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, là điểm nhấn cho phát triển du lịch ở thành phố Hưng Yên.


6- ĐỀN NAM HÒA

Đền Nam Hoà được xây dựng tại làng Nam Hòa, tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng xưa; nay là đường Bãi Sậy, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Làng Nam Hòa là nơi tụ cư của người Việt và người Nhật, vì vậy người dân nơi đây đã gọi tên đền theo tên làng để ghi nhớ tình hữu nghị Việt - Nhật, thời kỳ Phố Hiến hưng thịnh, thế kỷ XVII.

Đền Nam Hoà thờ ba vị thiên thần gồm Đức Thiên Quan, Đức Thổ Địa Long thần và Đức Thuỷ Phủ - những vị thần đại diện cho sức mạnh của tam giới là Thiên, Địa, Thủy (trời, đất và nước). Các ngài vô cùng linh ứng, có công che trở, bảo vệ cho nhân dân địa phương, làm giảm bớt những thiên tai, dịch hoạ và mang đến mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt nên đời sống người dân ngày một ấm no, thịnh vượng. Trải qua các triều đại, thần đều âm phù che chở, bảo vệ người dân nên các ngài được nhà vua ban sắc, tặng phong mỹ tự.

Đền Nam Hoà được khởi dựng từ sớm trên thế đất hình con quy, diện tích rộng 720mvới nhiều cây cổ thụ bao quanh. Đến thời Nguyễn, ngôi đền được trùng tu với quy mô lớn, kết cấu tổng thể kiến trúc gồm bốn toà được làm hoàn toàn từ vật liệu gỗ chắc khoẻ. Trải qua thời gian và những biến động của lịch sử, xã hội, ngôi đền đã bị phá hủy. Sau đó, đền Nam Hòa được nhân dân địa phương phục dựng lại trên nền toà Hậu cung, tổng thể kiến trúc kiểu chữ Nhất gồm 03 gian, chia làm hai phần ngăn cách nhau bởi bức tường lửng với bốn mái theo phong cách kiến trúc truyền thống.

Mặt tiền Đền Nam Hòa

Xưa kia, lễ hội tại đền được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 và ngày mồng 10 tháng 8. Vào mỗi dịp lễ hội, nhân dân thường tổ chức tế lễ, rước kiệu và diễn ra nhiều trò chơi dân gian truyền thống như: chọi gà, cờ tướng,… Lễ vật dâng cúng thần trong những ngày diễn ra lễ hội được chia theo xuất đinh của làng. Lễ vật thường là xôi, lợn, hoa quả,... Khi tế lễ xong thì phân phát lộc cho những người có ngôi thứ trong làng, rồi thừa lộc nhân dân cùng nhau thụ hưởng.

Ngày nay, lễ hội đền Nam Hoà thường được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 cùng dịp với lễ hội đền Mẫu, đền Trần và lễ hội đình, chùa Hiến,... Đây cũng là dịp khai mạc lễ hội dân gian Phố Hiến với nhiều hoạt động tạo thành sự kiện văn hoá mang đậm sắc thái tín ngưỡng truyền thống của cộng đồng cư dân Phố Hiến.

Với những giá trị lịch sử văn hóa, đền Nam Hòa là một trong 16 di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng năm 2014.

7- ĐỀN TRẦN

Đền Trần nằm uy nghi soi bóng bên hồ Bán Nguyệt thuộc phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên, là một trong những danh thắng tiêu biểu thuộc quần thể di tích Phố Hiến được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt năm 2014.

Ngôi đền tôn thờ người anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - vị tướng trụ cột của vương triều Trần. Ông sinh ngày 10 tháng Chạp năm Mậu Tý (1228) trong một gia đình quý tộc thuộc tôn thất nhà Trần, nguyên quán ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, Nam Định. Cha ông là An Sinh vương Trần Liễu, anh ruột của Vua Trần Thái Tông, mẹ là Nguyệt Vương Phi.

Ngay từ lúc mới sinh, Trần Quốc Tuấn đã được coi là bậc kỳ tài sau này có thể cứu nước, giúp đời. Với tư chất thông minh, tài trí hơn người lại được giáo dục, rèn luyện toàn diện ngay từ thủa nhỏ, nên Quốc Tuấn sớm trở thành người văn, võ toàn tài.

Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn có dung mạo khôi ngô, đọc thông hiểu rộng, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong con có thể rửa nhục cho mình. Song, Trần Quốc Tuấn đã tỏ rõ là một bậc hiền tài, một vị anh hùng cứu nước, biết đặt lợi nước lên trên thù nhà, tạo nên sự thống nhất ý trí của toàn bộ vương triều, vun trồng khối đoàn kết trong gia tộc, tạo cho thế nước đủ sức mạnh đè bẹp quân thù. Ông đã ba lần tham gia chống quân Nguyên - Mông xâm lược, được vua Trần phong làm Quốc Công Tiết Chế, thống lĩnh toàn quân đánh giặc. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt đã làm nên chiến thắng, giữ vững nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi đã chặn đứng đà xâm lược của quân giặc xuống Đông Nam Á, đồng thời che chở cho nhiều dân tộc khỏi họa ngoại xâm.

Không chỉ là nhà quân sự lỗi lạc, Trần Quốc Tuần còn là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm lý luận quân sự có giá trị như: Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư,… khẳng định một bước phát triển quan trọng của khoa học quân sự Việt Nam - hình thành học thuyết khoa học quân sự dân tộc trong chiến tranh giữ nước.

Toàn cảnh Đền Trần

Trần Quốc Tuấn mất ngày ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300) tại tư dinh Kiếp Bạc. Theo di nguyện thi hài ông được hỏa táng, thu vào bình đồng và an táng tại vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc. Ông được phong tước Thái Sư Thượng phụ Thượng Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương. Nhà vua cho lập đền thờ tại Vạn Kiếp - Chí Linh - Hải Dương và cũng chính là ấp phong của ông lúc sinh thời.

Trong tâm thức người dân đất Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã đi vào huyền thoại, đi vào thế giới tâm linh, trở thành vị “Thánh” được toàn dân thờ phụng. Ông được người đời tôn xưng là vị thần bảo vệ, che chở cho cư dân nông nghiệp tránh được thiên tai, (địch họa), đem lại mùa màng tươi tốt. Từ Trần Hưng Đạo đến “Đức Thánh Trần” rồi “Đức Thánh Cha”. Từ một nhân vật lịch sử “bằng xương bằng thịt” đã trở thành vị thánh thiêng liêng được tôn thờ rộng rãi và phổ biến nhất trong các vị thần linh đất Việt.

Tương truyền, đền Trần được xây dựng trên một vị thế đắc địa về cảnh quan, phong thủy của Phố Hiến xưa. Đây là nơi hội tụ của ba con sông lại gần cửa biển nên trở thành vị trí chiến lược trọng yếu, thuận lợi cho cả giao thông thủy bộ. Vì vậy, Trần Hưng Đạo đã chọn nơi đây làm địa điểm đóng quân doanh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 và thứ 3. Phòng tuyến này nằm trong chiến lược bảo vệ vùng Tức Mặc (quê hương của Nhà Trần) đồng thời có thể làm bàn đạp để phản công quân địch, giải phóng Thăng Long.

Lễ hội Đền Trần

Theo các tư liệu lịch sử, đền Trần được khởi dựng vào nửa đầu thế kỷ XIV sau khi Hưng Đạo Đại Vương mất. Trải qua sự biến thiên của thời gian, sự thăng trầm của lịch sử, dưới triều Nguyễn, niên hiệu Tự Đức 16 (1863), niên hiệu Thành Thái 4 (1892) ngôi đền nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Dấu ấn kiến trúc đền Trần hiện nay mang đậm phong cách kiến trúc cuối thời Nguyễn, thế kỷ XIXHiện nay, kiến trúc tổng thể đền Trần theo kiểu chữ Tam gồm: 05 gian Tiền tế, 05 gian Trung từ và 03 gian Hậu cung. Các hạng mục công trình được bố trí cân đối, hài hòa theo kiểu “trùng thềm điệp ốc”. Tại gian trung tâm Hậu cung là ban thờ Đức Thánh Trần. Phía sau là ngai và bài vị Tổ nghiệp họ Trần cùng gia đình và hai gia tướng tài danh là Yết Kiêu và Dã Tượng.

Hiện nay, đền Trần còn bảo lưu được nhiều hiện vật rất có giá trị về lịch sử - văn hóa và mỹ thuật, đó là hệ thống cửa võng, câu đối, ngai thờ, bia đá… và đặc biệt là 15 đạo sắc phong thời Nguyễn. Đây là những di sản văn hóa vô giá, là nguồn sử liệu quý báu đối với các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về lịch sử, địa danh của Phố Hiến xưa.

Hàng năm, vào ngày 8/3 và 20/8 âm lịch, đền Trần thường tổ chức lễ hội nhằm kỷ niệm ngày chiến thắng Bạch Đằng lịch sử và ngày hóa của Đức Thánh Trần. Đây cũng là dịp diễn ra các lễ hội văn hóa dân gian vùng Phố Hiến với nhiều hoạt động văn hóa tạo thành sự kiện mang đậm sắc thái tín ngưỡng của cộng đồng cư dân nơi đây.

Đền Trần là một di tích đặc biệt tiêu biểu nằm trong quần thể khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương đến dâng hương, chiêm bái. Với ý nghĩa lịch sử to lớn và những tiềm năng sẵn có, đền Trần đã và đang trở thành một điểm du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn cho mỗi du khách khi về thăm Phố Hiến- Hưng Yên.

8- ĐỀN MẪU

Đền Mẫu có tên chữ là Hoa Dương Linh từ, là một thắng tích đẹp nằm uy nghi soi bóng bên Hồ Bán Nguyệt thơ mộng như một bức tranh phong cảnh hữu tình tại đường Bãi Sậy, phường Quang trung, thành Phố Hưng Yên.

Đền thờ bà Dương Quý Phi triều Tống, Trung Quốc. Theo sử sách, vào thế kỷ XIII, đế quốc Nguyên - Mông xâm chiếm nước Tống. Triều đình Mạt Tống tan vỡ, vua quan phải chạy trốn ra đảo Nhai Sơn. Nhưng thế cùng lực kiệt không chống cự nổi sự truy đuổi tới cùng của quân Nguyên - Mông, vua Tống Đế Bính cùng quan quân, tam cung lục viện triều đình nhảy xuống biển tuẫn tiết. Sau nhiều ngày trôi dạt trên biển, thi hài bà Dương Quý Phi đã dạt vào vùng biển hạ lưu Đằng Giang, thuộc vùng đất Phố Hiến. Nhân dân địa phương đã đắp mộ và dựng ngôi miếu nhỏ thờ bà, mọi người đến thắp hương, cầu đảo đều rất linh ứng.

 Toàn cảnh Đền Mẫu

Theo “Đại Nam Nhất Thống Chí”: Đền Mẫu được xây dựng vào năm Tường Hưng thứ nhất (1279) với quy mô nhỏ. Đến đời vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294), nhà vua thân chinh đi đánh giặc Chiêm Thành qua đây thấy khung cảnh yên tĩnh, không gian thoáng đãng đã cho quân dừng lại. Đêm hôm đó, Thánh Mẫu đã ứng mộng phù trợ, giúp nhà vua đánh giặc Chiêm Thành. Thắng lợi trở về, nhà vua chiếu lệnh cho nhân dân địa phương và Quan Thái Giám họ Du tôn tạo ngôi đền khang trang, đẹp đẽ. Trải qua các triều đại, đền Mẫu đều được trùng tu, tôn tạo và dấu ấn kiến trúc hiện nay mang đậm phong cách thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 8 (1896) với tổng thể các hạng mục gồm: Nghi môn, Đại bái, Cung đệ Nhất, Cung đệ Nhị, Cung đệ Tam, Hậu cung, Phủ Đông, Phủ Tây, Lầu Cô,… Các công trình đều được làm bằng gỗ lim, kết cấu các bộ vì kiểu chồng giường giá chiêng hoặc giá chiêng biến thể, chạm khắc hoa văn tinh xảo với nhiều đề tài như hoa dây, hổ phù, đao mác, chữ Thọ, hoa văn kỷ hà, tứ linh, tứ quý,… có giá trị mỹ thuật cao.

 Mặt tiền Đền Mẫu

Sự hội tụ độc đáo của 3 cây đa, sanh, si tại sân Đền Mẫu

Đền Mẫu còn bảo lưu được nhiều cổ vật, đồ thờ quý rất có giá trị như: bộ long sàng, long kỷ, cỗ kiệu bát cống, thất cống tạo tác vào thời Hậu Lê còn khá nguyên vẹn, đường nét tinh xảo với các đề đài độc đáo. Ngoài ra, tại đền còn lưu giữ được đôi lọ lục bình men rạn thời Nguyễn, bức châm của tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (1896) và 15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn.

Ngay tại sân đền là sự hội tụ độc đáo của ba cây đa, sanh, si cổ thụ khoảng 800 năm, tạo nên một kỳ quan hùng vĩ và cổ kính bao trùm toàn bộ ngôi đền. Tương truyền, xưa kia trước cửa đền là cây bàng cổ thụ, chim chóc về đậu mang theo những hạt cây xanh, si, đa và bỏ lại trên thân cây bàng. Những hạt đó đã mọc thành cây và phát triển ngay trên thân bàng, dần dần rễ ba cây sanh, si, đa tìm xuống đất, bao trùm kín quanh thân cây bàng thành thế kiềng ba chân vững chắc. Và theo nhận định của nhà sử học Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng thì “Đây là cây đa cổ nhất vùng châu thổ Bắc Bộ”.

Hàng năm, lễ hội đền Mẫu diễn ra từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch, nhằm tưởng nhớ ngày mất của Thánh mẫu. Hòa cùng lễ hội dân gian Phố Hiến, tại đây diễn ra nhiều hoạt động nhằm bảo lưu những giá trị truyền thống như: Tế lễ, rước kiệu, múa lân, múa rồng, rước nước, chọi gà, cờ tướng,… và nhiều trò chơi dân gian khác. Đây là dịp tập trung đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương tham dự, tạo nên bản sắc độc đáo của văn hóa Hưng Yên trong vùng châu thổ Bắc Bộ, tạo đà cho du lịch văn hóa tâm linh của tỉnh nhà ngày càng phát triển.

Lễ hội Đền Mẫu

Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử - văn hóa và kiến trúc nghệ thuật, ngày 31 tháng 12 năm 2014 Thủ tướng Chính Phủ đã ký quyết định xếp hạng đền Mẫu là một trong 16 di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến, thành phố Hưng Yên.

9CHÙA PHỐ

Chùa Phố toạ lạc trên đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Xưa kia, đây là khu vực người Nhật và người Hoa tập trung sinh sống đã lập lên phố Bắc Hoà. Ngôi chùa là minh chứng cho sự tồn tại của người Hoa ở lại Phố Hiến sau thời kỳ hưng thịnh.

Chùa phố khi mới khởi dựng có tên là Quan Âm CácSau đó, người dân Trung Quốc ở phố Bắc Hoà tiến hành tu sửa, mở rộng và đổi tên là chùa Minh Hương với mong muốn làm rạng rỡ quê hương bản xứ. Thời gian sau, chùa được đổi tên thành Bắc Hoà tự. Đến đầu thế kỷ XX, quan Tổng đốc Thái Bình là Nguyễn Năng Quốc hưng công tu sửa chùa với mong muốn nơi đây thành trung tâm Phật giáo của tỉnh Hưng Yên. Để cảm tạ công ơn của ông, nhân dân đổi tên chùa là Bắc Hoà Quốc Công tự và thành Bắc Hoà Nhân Dân tự. Ngoài ra, ngôi chùa nằm ở trung tâm thành phố nên gọi là chùa Phố và lâu dần thành tên chính của chùa.

Chùa Phố ngoài thờ Phật còn là trung tâm Phật giáo của Phố Hiến xưa cũng như thành phố Hưng Yên ngày nay.

Tam quan Chùa Phố

Tương truyền, chùa Phố được khởi dựng vào cuối thời Lê, thời kỳ Phố Hiến đã và đang suy tàn, nhóm người Hoa còn lại ở Phố Hiến cùng với một số nhà từ thiện người Bắc Hoà đã xây dựng nên. Ban đầu, chùa có quy mô nhỏ, chỉ là lầu thờ Quan âm. Trải qua một số lần trùng tu vào các năm Tự Đức thứ 10 (1857) và Thành Thái thứ 16 (1903), chùa có quy mô lớn hơn. Ban đầu chùa quay về hướng Nam. Năm Bảo Đại thứ 1 (1926) quan Tổng đốc Thái Bình là Nguyễn Năng Quốc đã tiến hành tu sửa chùa với quy mô lớn. Ông đã cho xoay chùa về hướng Bắc, mở rộng phật điện, làm Tam quan và Gác chuông. Hiện nay, chùa Phố có tổng thể kiến trúc gồm các hạng mục: Tam quan, 03 gian Tiền đường, 03 gian Thiên hương và 03 gian Thượng điện. Kết cấu các bộ vì kiểu kèo cấu quá giang đơn giản hoặc kiểu cuốn vòm. Trên đó, trang trí hoa văn, đắp phù điêu các vị Phật, các vị La Hán rất sống động.

Nhìn chung, tổng thể các hạng mục chùa Phố mang đậm nét kiến trúc Trung Hoa cách tân kết hợp với kiến trúc truyền thống của người Việt và phương Tây. Đây là loại hình kiến trúc mà chúng ta ít gặp ở tỉnh Hưng Yên nói riêng, đồng bằng sông Hồng nói chung. Có thể đây là nét độc đáo, pha trộn trong công trình kiến trúc văn hoá ở đô thị cổ Phố Hiến một thời một thời nổi danh chỉ đứng sau kinh đô Thăng Long. Chùa Phố là một trong 16 di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng ngày 31/12/2014.


10ĐỀN THIÊN HẬU

Đền Thiên Hậu có tên chữ là Thiên Hậu cung, tọa lạc trên phố Bắc Hòa - trung tâm của Phố Hiến xưa, nay là đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

Ngôi đền tôn thờ bà Lâm Tức Mặc, người làng Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà là vị thần biển của người Hoa, có lòng nhân đức cứu giúp dân lành, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Bà được tôn vinh là thần Hàng Hải, được người dân ca ngợi, kính cẩn lập đền, mở phủ nhiều nơi để tôn thờ.

Theo "Đại Thanh nhất thống chí" Lâm Tức Mặc quê ở đảo Mi Châu, thuộc làng Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà sinh ngày 23 tháng 3 âm lịch, là con gái thứ 6 Lâm Nguyện, em gái thứ 2 của Ôn Công, thuộc dòng dõi Cửu Mạc. Tương truyền, Lâm Tức Mặc khi sinh ra có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ bao quanh, đặc biệt từ khi lọt lòng mẹ cho đến đầy tháng, bà không một lần cất tiếng khóc, vì thế cha mẹ gọi là Lâm Mặc nương. Từ nhỏ, bà thông minh, đĩnh ngộ hơn người, có lòng bao dung, giúp đỡ người khác. Năm lên 8 tuổi, bà đi học tiên và luyện đơn thành cửu chuyên, có thể hô mưa, gọi gió và có phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Khi dân tình mất mùa đói kém, bà đã phát hiện ra một thứ rong biển dùng để nấu thạch làm thức ăn cứu đói cho dân. Bà còn tìm ra thứ dầu ăn gọi là "Ma Mộc", phun xuống đất mọc lên cây cho hạt ăn thay lúa gạo, giúp dân nghèo qua những trận đói kéo dài. Bà tinh thông y thuật nên thường trị bệnh cứu người, dậy dân cách phòng bệnh dịch, được mọi người vô cùng mến phục… Bà còn thu phục được hai tướng tài Thiên Lý Nhãn và thiên Lý Nhĩ, các ngài có tài nhìn và nghe xa, phát hiện bọn giặc biển để trừ khử cho dân chài ra khơi đánh cá yên lành, thịnh vượng.

Đền Thiên Hậu được khởi dựng vào cuối thế kỷ XVI nửa đầu thế kỷ XVII do 14 dòng họ người Hoa ở Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến quyên góp vật liệu chuyển sang bằng đường biển, đồng thời kết hợp với các nghệ nhân người Việt cất dựng lên. Hiện nay, ngôi đền là một công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo, tương đối đồng bộ, hài hòa với các hạng mục: Tam quan, Giải vũ, Thiêu hương và Hậu cung. Đền chính xây bằng gạch Bát Tràng, đầu đao cong dáng đuôi cá. Tam quan của đền cao và rộng, tường bao hai bên trang trí gạch men hoa chanh màu xanh lam. Trước Tam quan là đôi nghê tạo tác bằng chất liệu đá hoa cương trong tư thế ngồi chầu ra cửa, con đực miệng ngậm ngọc, con cái ôm con bú, vẻ đẹp của đôi nghê đã đi vào câu ca:

Ai về tỉnh lỵ Hưng Yên
Thăm đền Thiên Hậu đôi bên nghê chầu
Con Dương ngậm ngọc Bích Châu
Con Âm sữa ngọt một bầu nuôi con

Hình ảnh hai con nghê này nói lên quan niệm sống của người Trung Hoa, được của và được con là hạnh phúc lớn của con người.

Đôi nghê chầu trước cửa, nét đặc sắc của Đền Thiên Hậu

Tiếp đến là Thiêu hương có lối kiến trúc kiểu chồng diêm với khoảng cách cổ diêm ngắn, thân cột đỡ mái hình lục giác, trên các vì cánh cửa chạm khắc đề tài trong các tích truyện của Trung Hoa như: Tam Quốc, Tây Du Ký… Hậu cung 05 gian, các bộ vì kết cấu kiểu chồng rường cánh. Các mảng chạm khắc được kết hợp nhiều chủ đề như sư tử hý, phượng hàm thư, rùa, rơi… mang đậm phong cách kiến trúc nghệ thuật Trung Hoa. Tại gian trung tâm Hậu cung đặt khám thờ, trong bài trí 05 pho tượng của bà tượng trưng cho 05 phủ của tỉnh Phúc Kiến. Ngoài gian thờ chính, hai gian bên có ban thờ thân phụ, thân mẫu và anh ruột của bà cùng ban thờ các dòng họ người Hoa đã có công xây dựng và tôn tạo đền. Đền Thiên Hậu là một trong số rất ít những công trình kiến trúc của người Hoa ở Phố Hiến còn được bảo lưu đồng bộ tới ngày nay.

Hiện nay, đền Thiên Hậu còn gìn giữ được nhiều đồ thờ tự, cổ vật có giá trị liên quan tới việc đi sông biển và ngợi ca tài danh của vị nữ thần như: Sắc phong, bia đá, nghê đá, hoành phi, câu đối, kiệu Mẫu,… và nhiều đồ tế tự được mang từ Trung Quốc sang. Nổi bật là những mảng chạm khắc, trang trí kiến trúc mang đậm dấu ấn, màu sắc văn hóa Trung Hoa đan xen kiến trúc của người Việt với các đề tài: bát mã quần phi, phượng hàm thư…

  Khu thờ chính Đền Thiên Hậu

Hàng năm, đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23/3 và ngày 9/9 (âm lịch) để tưởng nhớ ngày sinh và ngày hoá của Thánh Mẫu. Đây là lễ hội mang sắc thái độc đáo riêng, là sự kết hợp giữa hai nền văn hóa Trung Hoa với văn hóa Việt. Lễ vật được dâng lên là những món ăn truyền thống của người Hoa như bánh Dong Câu, kẹo Sìu, bánh Rùa, bánh Tô Châu.

Từ những giá trị lịch sử, khoa học hiện hữu, đền Thiên Hậu là một trong 16 di tích thuộc quần thể di tích Phố Hiến được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định xếp hạng là “Di tích Lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật” cấp quốc gia đặc biệt năm 2014.

11VÕ MIẾU

Võ Miếu được xây dựng trên thế đất “long ngư quần tụ” tại phố Bắc Hòa xưa, nay thuộc đường Trưng Trắc, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Đây là một trong những di tích tiêu biểu của người Hoa hiện còn lưu giữ được tại Phố Hiến.

Võ Miếu thờ Quan Thánh Đế Quân hay còn gọi là Thượng Hữu Phục Ma Đại Đế, dân gian gọi là Quan Công hay Quan Vũ. Quan Vũ tự là Vân Trường - một vị tướng văn võ song toàn thời Tam Quốc (Trung Quốc). Ông quê ở Giả Lương, quận Hà Đông, nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông cao chín thước, mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt, là người vũ dũng, hào hiệp, hay bảo vệ kẻ yếu. Quan Vũ cùng với Lưu Bị, Trương Phi kết nghĩa huynh đệ và có công lớn trong việc thành lập nhà Thục Hán. Ông là một trong những dũng tướng trung nghĩa của Lưu Bị đánh thắng nhiều trận, làm cho quân địch nhiều lần khiếp sợ, song cuối cùng bị thất bại trước Ngô Quyền. Sau khi mất, ông được phong tặng chức Tráng Mậu Hầu. Đối với người Hoa, ông là hiện thân của trung nghĩa và được tôn là thánh nhân phù hộ cho hơn 20 nghề truyền thống nên người dân Trung Quốc thờ phụng ông ở nhiều nơi.

Tam quan Võ Miếu

Võ Miếu là một trong số rất ít di tích của người Hoa khi họ di cư sang buôn bán và cư trú tại Phố Hiến xây dựng nên trong thời kỳ phồn thịnh của đô thị Phố Hiến (Thế kỷ XVI - XVII), được trùng tu, tôn tạo lớn vào thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái (1898). Hiện nay, Võ Miếu là một trong những công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn kiến trúc Phúc Kiến đan xen kiến trúc Việt. Kiến trúc tổng thể Võ Miếu kiểu “Nội Công ngoại Quốc” gồm: Tam quan, Tiền tế, Thiêu hương, Hậu cung và hai Giải vũ. Tam quan 03 gian, kiến trúc các bộ vì kiểu chồng rường con nhị được bào trơn đóng bén. Tòa Tiền tế 03 gian, kết cấu phần mái theo kiểu “Thượng tứ hạ ngũ”, các bộ vì làm kiểu vì giá chiêng. Thiêu hương 01 gian, kiến trúc đơn giản xây bổ tứ làm trụ cột. Tiền tế có treo đại tự ca ngợi công đức của Quan Công, đó là:

Thiên cổ vĩ nhân
Bạch nhật thanh thiên
Đại nghĩa tham thiên

Dịch nghĩa:

Bậc vĩ nhân ngày xưa
Đức của thần toả sáng như trời xanh
Nghĩa lớn thấu trời

Hậu cung gồm 03 gian, các bộ vì kiểu giá chiêng. Trên các cấu kiện kiến trúc được các nghệ nhân chạm nhiều đề tài trang trí mang đậm nét kiến trúc, mỹ thuật của Trung Hoa đan xen với đề tài dân gian Việt.

Hiện nay, Võ Miếu còn lưu giữ nhiều đồ thờ tự có giá trị về mặt lịch sử văn hóa cũng như mỹ thuật như: Tượng Quan Vũ, bộ tam sự, sập chân quỳ dạ cá, bát tô thời Minh, bát hương thời Lê, hương án đá,…

Hàng năm, vào ngày 13 tháng 5 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội để kỷ niệm ngày sinh của đức Thánh với nhiều hoạt động và trò chơi dân gian nhằm bảo lưu những giá trị truyền thống.

 Với những giá trị tiêu biểu, Thủ tướng Chính Phủ ký quyết định xếp hạng Võ Miếu là một trong 16 di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến, thành phố Hưng Yên năm 2014.

                   Phương Thu (Trung tâm Văn hóa và Truyền thanh thành phố)

 




© 2016 Copyright by VNPT Hưng Yên.